Bị kết án DUI hai lần sẽ bị từ chối hồ sơ quốc tịch

Vào ngày 25 Tháng Mười, 2019, bộ trưởng Bộ Tư Pháp đã ra hai quyết định về vấn đề trục xuất. Tuy rằng hai quyết định đó phát xuất từ hai hồ sơ trục xuất, nhưng những hồ sơ cùng vấn đề đều bị ảnh hưởng theo. Quyết định thứ nhất là Matter of Castillo-Perez. […]

180 1 Bi Ket An Dui Hai Lan Se Bi Tu Choi Ho So Quoc Tich

Quyết định thứ nhất là Matter of Castillo-Perez. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp quyết định rằng khi bị kết án Driving Under Influence (DUI) (tạm dịch là lái xe khi bị ảnh hưởng) hai lần hoặc nhiều hơn trong thời gian theo luật định sẽ ảnh hưởng đến quyết định tính cách đạo đức tốt của đương đơn.

Trong vụ án này, đương sự xin tòa miễn trục xuất theo điều luật Cancellation of Removal cho những người chưa có thẻ xanh. Theo điều luật đó, đương sự phải chứng minh rằng đương sự ở Hoa Kỳ bất hợp pháp trên 10 năm và trong 10 năm đó đương sự là người có tính cách đạo đức tốt và nếu đương sự bị trục xuất thì thân nhân của đương sự ở Hoa Kỳ sẽ bị “exceptional and extremely unusual hardship,” tạm dịch là khốn khổ cùng cực.

Tòa Di Trú chấp nhận miễn trục xuất và cấp thẻ xanh dù rằng đương sự bị hai án DUI trong vòng 10 năm. Sở Di Trú ICE kháng cáo và Tòa Kháng Cáo Di Trú bác bỏ quyết định của Tòa Di Trú.  Sau đó bộ trưởng Bộ Tư Pháp ra lệnh cho Tòa Kháng Cáo Di Trú chuyển hồ sơ qua cho bộ trưởng Bộ Tư Pháp xét lại và sau đó xác nhận quyết định của Tòa Kháng Cáo Di Trú.

Nếu áp dụng vào hồ sơ xin nhập quốc tịch, thì khi đương đơn bị kết án DUI hai lần trong vòng năm năm hoặc ba năm (nếu là hồ sơ xin nhập quốc tịch theo diện vợ/chồng là công dân Hoa Kỳ) thì hồ sơ quốc tịch có thể bị từ chối vì đương đơn không chứng minh được là người có tính cách đạo đức tốt, ngoại trừ đương đơn có bằng chứng chứng minh rằng đương đơn vẫn là người có tính cách đạo đức tốt dù rằng đương đơn đã có hai án DUI.

Trước khi có quyết định này thì thường án DUI không có ảnh hưởng khi quyết định một người có tính cách đạo đức tốt hay không vì án DUI không phải là “Crimes Involving Moral Turpitude” (CIMT). Thường CIMT là những án có dính líu tới gian lận, lừa gạt, hoặc hành vi đồi bại, xấu xa, đồi trụy gây sốc cho một người hợp lý như giết người, ăn cắp, ăn cướp, hãm hiếp, gian lận…

Quyết định thứ nhì là Matter of Thomas and Thompson. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp định nghĩa “term of imprisonment or a sentence” (tạm dịch là thời gian hạn tù giam hay một bản án) có nghĩa là bản án hình sự ban đầu mà không liên quan đến những thay đổi sau khi kết án.

Án lệnh thay đổi bản án ban đầu chỉ có hiệu nghiệm cho vấn đề di trú nếu lý do thay đổi án lệnh là vì khiếm khuyết về thủ tục hoặc nội dung trong tố tụng hình sự. Quyết định này phát xuất từ hai vụ án của ông Thomas và ông Thompson. Trong vụ quyết định này ông Thomas và ông Thompson đều bị án bạo hành gia đình với thời gian tù là 12 tháng.

1-Ông Thomas trong khi chờ đợi Tòa Kháng Cáo Di Trú xét xử thì ông làm đơn lên tòa hình sự để thay đổi thời gian tù từ 12 tháng thành 11 tháng 28 ngày. Hồ sơ được trả ngược lại Tòa Di Trú để xét xử nhưng Tòa Di Trú từ chối không chấp nhận bản án hình luật mới và Tòa Kháng Cáo Di Trú chấp nhận quyết định của Tòa Di Trú.

2-Ông Thompson trong thời gian hồ sơ chờ đợi Tòa Di Trú xét xử thì ông làm đơn lên tòa hình sự để thay đổi thời gian tù từ 12 tháng thành 11 tháng 27 ngày. Tòa Di Trú từ chối không chấp nhận bản án hình sự mới và hồ sơ được kháng cáo lên Tòa Kháng Cáo Di Trú và Tòa Kháng Cáo Di Trú bác bỏ quyết định của Tòa Di Trú và miễn trục xuất cho ông Thomspon.

Bộ trưởng Bộ Tư Pháp ra lệnh cho Tòa Kháng Cáo Di Trú chuyển hai hồ sơ qua để xét lại. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp quyết định rằng án lệnh của tòa hình sự thay đổi bản án ban đầu chỉ có hiệu nghiệm cho vấn đề di trú nếu lý do thay đổi án lệnh là vì khiếm khuyết về thủ tục hoặc nội dung trong tố tụng hình sự chứng không phải vì lý do khó khăn di trú. Bản án hình sự của hai ông không nói rõ lý do tại sao bản ánh hình sự được thay đổi cho nên không được chấp nhận cho hồ sơ di trú.

Lý do mà hai ông làm đơn xin tòa hình sự giảm bớt thời gian tù dưới 12 tháng là vì những án nào được coi là “Crimes of Violence” (tạm dịch là tội phạm bạo lực) và án tù một năm trở lên là bị ghép vào tội “Aggravated Felony” của luật di trú. Khi đương sự bị ghép vào tội “Aggravated Felony” thì rất khó được miễn trục xuất. Trong trường hợp của hai ông thì muốn tòa hình sự giảm thời gian tù dưới một năm để có hy vọng được Tòa Di Trú miễn trục xuất.

Nếu áp dụng vào hồ sơ xin nhập quốc tịch, khi đương sự có tiền án và án đó sẽ cảnh trở đương sự xin nhập quốc tịch thì đương sự có thể làm đơn lên tòa hình sự để thay đổi bản án. Điển hình là án bạo hành gia đình theo điều luật PC 273.5 được coi là tội có tính cách đạo đức không tốt thì hồ sơ quốc tịch sẽ bị từ chối và có thể bị trục xuất. Nhưng nếu án dưới điều luật PC 273.5 được thay đổi bằng án dưới điều luật PC 243(e)(1) thì hồ sơ quốc tịch có thể được chấp thuận. Tuy nhiên, để được áp dụng cho hồ sơ di trú, lý do xin tòa án hình sự thay đổi bản án phải là vì khiếm khuyết về thủ tục hoặc nội dung trong tố tụng hình sự.

Bản tin chiếu khán

Theo yêu cầu của quý bạn đọc, sau đây là bản thông tin chiếu khán cho Tháng Giêng, 2020.

Ưu tiên 1 – priority date là ngày 15 Tháng Bảy, 2013, tức là ưu tiên được dành cho những người con trên 21 tuổi chưa có gia đình của công dân Hoa Kỳ.

Ưu tiên 2A – priority date là hiện hành, tức là ưu tiên được dành cho vợ, chồng, hoặc con độc thân dưới 21 tuổi của thường trú nhân.

Ưu tiên 2B – priority date là ngày 8 Tháng Tám, 2014, tức là ưu tiên được dành cho con độc thân trên 21 tuổi của thường trú nhân.

Ưu tiên 3 – priority date là ngày 15 Tháng Mười Một, 2007, tức là ưu tiên được dành cho con đã có gia đình của công dân Hoa Kỳ.

Ưu tiên 4 – priority date là ngày 1 Tháng Hai, 2007, tức là ưu tiên được dành cho anh, chị hoặc em của công dân Hoa Kỳ.


© 2024 | Thời báo MỸ



 

Bài liên quan