Phát hiện bất ngờ về sự phổ biến của COVID kéo dài, nguy cơ tác động lớn đến hệ thống y tế

Một phân tích tổng hợp từ Đại học Bang Pennsylvania, Mỹ, tìm ra những con số bất ngờ về tỷ lệ bệnh nhân bị COVID kéo dài – tình trạng các triệu chứng COVID-19 vẫn tồn tại nhiều tháng sau khi hồi phục.

Một nghiên cứu mới từ Mỹ cho thấy hơn một nửa số người sống sót sau COVID-19 gặp phải các triệu chứng của virus sáu tháng sau khi hồi phục, Daily Mail đưa tin.

Các nhà nghiên cứu từ Đại học Bang Pennsylvania, Mỹ, đã thực hiện một phân tích tổng hợp các nghiên cứu trước đó về những bệnh nhân có triệu chứng COVID-19 vài tháng sau khi xét nghiệm dương tính.

Theo đó, các triệu chứng như suy giảm nhận thức, lo lắng và mệt mỏi mãn tính là những triệu chứng phổ biến nhất được báo cáo sau khi khỏi COVID-19.

Các nhóm nghiên cứu cho biết hiện tượng được gọi là ‘COVID kéo dài’ này sẽ có tác động rất lớn đối với hệ thống y tế trong tương lai. Hàng triệu người sẽ có các triệu chứng nghiêm trọng và có khả năng kéo dài trong nhiều năm.

1 Phat Hien Bat Ngo Ve Su Pho Bien Cua Covid Keo Dai Nguy Co Tac Dong Lon Den He Thong Y Te

Nhân viên y tế điều trị cho bệnh nhân COVID-19 tại thành phố Coeur d'Alene, bang Idaho, Mỹ.

Bản phân tích tổng hợp vừa được công bố ngày 13/10 trên tạp chí khoa học JAMA Network Open. Trong đó, các nhà khoa học đã sử dụng 57 nghiên cứu từ 19 quốc gia, bao gồm hơn 250.000 người tham gia.

Trong số những người tham gia, gần 200.000 người đã phải nhập viện do các biến chứng do SARS-CoV-2 gây ra.

Trong phân tích mới, các triệu chứng COVID kéo dài được chia thành 3 hạng mục:

- ngắn hạn (vẫn còn xuất hiện trong vòng một tháng sau khi hồi phục);

- trung hạn (vẫn còn xuất hiện từ hai đến năm tháng sau khi phục hồi);

- dài hạn (vẫn còn xuất hiện sáu tháng sau khi hồi phục).

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng 54% bệnh nhân COVID-19 có các triệu chứng COVID dài hạn. Tỷ lệ bệnh nhân có các triệu chứng ngắn hạn hoặc trung gian cũng tương tự.

CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA COVID KÉO DÀI

Tuy nhiên, số lượng các triệu chứng COVID kéo dài là rất đa dạng vì virus đã được chứng minh là ảnh hưởng đến cơ thể của mỗi người theo cách khác nhau.

Do đó, các nhà nghiên cứu đã chia các triệu chứng thành 5 loại: triệu chứng chung, rối loạn sức khỏe tâm thần, suy giảm khả năng vận động, rối loạn thần kinh và rối loạn hô hấp.

Triệu chứng rối loạn thần kinh phổ biến nhất là khó tập trung, suy giảm trí nhớ và suy giảm nhận thức. Một nghiên cứu được đưa vào phân tích cho thấy hơn 40% bệnh nhân bị suy giảm nhận thức sau khi hồi phục từ COVID-19.

200 triệu chứng của COVID kéo dài: Rối loạn chức năng tình dục, ảo giác, mất trí nhớ và hơn thế nữa

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng 1/4 bệnh nhân hồi phục sau COVID-19 sẽ gặp một số khó khăn trong việc tập trung.

Phân tích mới cho thấy trung bình 30% những người sống sót sau COVID-19 sẽ bị lo lắng sau khi hồi phục, với một nghiên cứu báo cáo con số khoảng 70%. Lo lắng là triệu chứng phổ biến nhất trong số các rối loạn sức khỏe tâm thần.

Các triệu chứng phổ biến nhất là rối loạn hô hấp, trong đó trung bình hơn 60% bệnh nhân được phát hiện có bất thường trong các ảnh chụp phổi hoặc cần được hỗ trợ để thở tốt hơn.

Mệt mỏi, được coi là một triệu chứng chung, cũng rất phổ biến, với trung bình 40% bệnh nhân báo cáo triệu chứng này vài tháng sau khi hồi phục.

SỰ PHỐI HỢP CỦA CÁC CHUYÊN NGÀNH

COVID kéo dài vẫn tiếp tục là một bí ẩn với các chuyên gia y tế.

Vẫn chưa rõ chính xác tại sao COVID-19 ảnh hưởng đến một số người trong thời gian dài, điều này khiến việc điều trị tình trạng này trở nên khó khăn.

Phân tích của Đại học Bang Pennsylvania cho thấy phạm vi của COVID kéo dài rộng hơn nhiều người nghĩ, với tổng cộng 23 triệu chứng khác nhau liên quan đến các phương pháp điều trị thuộc nhiều lĩnh vực y học.

Các nhà nghiên cứu tin rằng các bác sĩ từ chuyên ngành khác nhau phải phối hợp để điều trị cho bệnh nhân và giải quyết tất cả các triệu chứng tiềm ẩn của họ sau khi phục hồi.

Tuy nhiên, phân tích mới cũng có một số hạn chế.

Đầu tiên, phần lớn những người tham gia trong tất cả các nghiên cứu đều phải nhập viện, có nghĩa là họ thường mắc bệnh nghiêm trọng hơn so với những bệnh nhân nhẹ hoặc trung bình.

Ngoài ra, trong phân tích có nhiều nghiên cứu tập trung vào một bệnh nền cụ thể khiến số lượng người mắc các bệnh này được báo cáo cao hơn so với những bệnh không được nghiên cứu. Điều này có thể dễ thấy ở danh mục bệnh đường hô hấp, nơi có một số lượng lớn người báo cáo các vấn đề nghiêm trọng ở mục này. 

(Nguồn: Daily Mail)

Theo Tổ quốc


© 2024 | Thời báo MỸ



 

Bài liên quan